“Tập truyện ngắn Vợ Nhặt” được xem là một trong những tác phẩm văn học hay nhất của Kim Lân, với những tình tiết cảm động và ý nghĩa sâu sắc về tình yêu và sự hy sinh. Dưới đây là một số mẫu Tóm tắt vợ nhặt kim lân Ngắn Gọn và Đầy Đủ nhất, Mời các bạn cùng tìm hiểu.
Tìm hiểu thêm :
Tóm tắt vợ nhặt kim lân
Mẫu 1
Năm 1945 ở nước ta, nạn đòi hoành hành nghiêm trọng khiến người chết như rạ, người sống cũng dật dờ như những bóng ma. Trong xã hội ấy có một chàng trai tên là Tràng. Anh sống ở xóm ngụ cư, xấu xí, thô kệch và ế vợ. Anh làm nghề kéo xe bò thuê và sống cùng người mẹ già. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh, Tràng đã quen với một cô gái. Vài ngày sau gặp lại, Tràng đã không còn nhận ra cô gái ấy, bởi cô tiều tuỵ và hốc hác đi nhiều lắm. Tràng đã mời cô gái một bữa ăn, cô gái liền ăn một lúc bốn bát bánh đúc. Sau mấy câu nói nửa đùa, nửa thật mà cô gái đã theo anh về nhà làm vợ. Việc Tràng nhặt được vợ đã làm cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, nhất là bà Cụ Tứ (mẹ của Tràng) cũng bàng hoàng, ngạc nhiên và lo lắng nhưng rồi bà cụ cũng đã hiểu ra và chấp nhận người con dâu ấy. Trong bữa cơm “đón nàng dâu mới”, họ chỉ ăn với nhau một bữa cháo và cháo cám. Nhưng trong bữa cơm ấy, bà cụ Tứ đã dành cho nàng dâu mới một tấm lòng độ lượng, bao dung. Tác phẩm kết thúc ở chi tiết vào buổi sáng hôm sau tiếng trống thúc thuế dồn dập, quạ đen bay vù như mây đen. Thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật và Tràng nhớ lại hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới hôm nào.
Mẫu 2
Vợ nhặt của Kim Lân là một truyện ngắn kể về người thanh niên nghèo tên Tràng sống ở xóm ngụ cư cùng với người mẹ của mình. Cái đói đã tràn về đến xóm ngụ cư khiến những con người sinh sống ở đây trở nên ủ rũ hơn. Tuy nhiên, chính nhờ cái đói này Tràng đã nhặt được vợ. Một tình huống éo le nhưng lại có thật. Thị lấy Tràng chỉ vì quá đói, thị không muốn chết đói nên sau mấy bát bánh đục và vài câu đùa bâng quơ Thị theo Tràng về nhà thật. Ban đầu Tràng cũng hơi chột dạ vì bản thân mình còn không lo nổi còn dẫn thêm Thị về. Khung cảnh xơ xác của nhà Tràng khiến thị nén một hơi thở dài. Mẹ của Tràng là bà cụ Tứ. Ban đầu khi về nhà thấy Thị ngồi ở giường bà lạ lắm. Sau khi hiểu ra con mình nhặt được vợ lòng bà chua xót, nghĩ thương cho người con dâu gặp phải cảnh đói người ta mới lấy con mình. Bữa cơm buổi sáng hôm sau của gia đình Tràng thật thảm hại, giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo. Kết thúc câu chuyện là hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới cùng những người đi phá kho thóc cứ hiện lên trong đầu Tràng.
Mẫu 3
Trong lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu điều trong nạn đói, vào một buổi chiều tà, Tràng – một người nông dân nghèo, luống tuổi, thô kệch, lại dở hơi, ở xóm ngụ cư – dẫn về nhà một người phụ nữ – người vợ nhặt. Tràng gặp người vợ nhặt đang trong hoàn cảnh đói rách cùng đường. Với một câu nói đùa và mời ăn bốn bát bánh đúc, Tràng được người phụ nữ này ưng thuận theo anh về nhà. Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu trong tâm trạng buồn vui, lo âu, hi vọng khó tách bạch nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình. Đêm tân hôn của họ diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới. Sáng hôm sau, Bà cụ Tứ và cô dâu mới xăm xắn dọn dẹp, quét tước trong ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm với cái nhà của mình và thấy mình nên người. Trông người vợ đúng là một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như lần đầu gặp nhau. Cụ Tứ hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng và một nồi chè cám. Qua lời kể của người vợ, Tràng hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phấp phới.
Mẫu 4
Nạn đói Ất Dậu năm 1945 xảy ra khiến hơn hai triệu người chết từ Trung Kì trở ra như ngả rạ ngoài đồng. Sự kiện lịch sử ấy đã đi vào trong văn chương qua tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân. Năm đói ấy người chết thây ma đầy đường, người sống thì cũng vật vờ, dặt dẹo. Ở xóm ngụ cư nọ, có anh cu Tràng thô kệch, xấu xí làm nghề đẩy xe bò kiếm miếng ăn qua ngày nuôi mẹ già trong túp lều nho nhỏ. Trong một lần đi lên tỉnh anh gặp thị-một cô gái đói rách, gầy hốc hác. Lần thứ hai gặp lại anh buông câu hò nửa thật nửa đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lên đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Chỉ với lời bông đùa ấy cùng bốn bát bánh đúc Tràng mời thị ăn mà anh nhanh chóng có vợ. Thị theo Tràng về nhà với cái vẻ rụt rè, ngại ngùng khiến cho tất cả người dân xóm ngụ cư bất ngờ. Ngạc nhiên nhất vẫn là bà cụ Tứ khi có người con gái theo con trai về và còn chào mình là u, nghe Tràng nói thì đã hiểu ra cơ sự. Giữa nạn đói khi ấy mà con trai có vợ khiến bà vừa mừng vừa lo. Anh cu Tràng có vợ khiến cho mọi thứ và mọi người thay đổi. Trong họ đều cảm thấy có một cái gì đó tươi mới hẳn lên. Một đám cưới bình dị đã được diễn ra với bữa cơm đầu đón nàng dâu mới là nồi cháo lõng bõng và bát cháo cám nghẹn đắng ở cổ nhưng trong đó có cả tình yêu thương, sự bao dung và niềm tin mà người mẹ già dành cho đôi vợ chồng trẻ. Kết thúc tác phẩm với âm thanh của tiếng trống thúc thuế, hình ảnh quạ đen bay trên trời, thị nói về chuyện quân Việt Minh phá kho thóc Nhật và lúc ấy trong óc Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. “Bốn bát bánh đúc thành lễ cưới thật rồi/ Xin từ điển hãy thêm từ vợ nhặt/ Ngòi bút Kim lân tưởng như đùa như khóc/ Đói quắt quay nhưng tha thiết con người” tác phẩm đã để lại cho ta giá trị sâu sắc về tình người và niềm tin vào tương lai tươi sáng trong cuộc sống.
Mẫu 5
Tràng là chàng trai xấu xí sống với mẹ ở xóm ngụ cư. Giữa nạn đói khủng khiếp, anh phải làm nghề kéo xe thóc thuê lên tỉnh để lấy tiền trang trải qua ngày. Ở đây, qua vài câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc, anh với cô thị đanh đá chỏng lỏn đã trở thành vợ chồng với nhau mà không cưới hỏi hay yêu đương gì. Cô thị theo không anh về làm vợ, trên đường về khác với vẻ đanh đá thường thấy, khi bị trêu, cô thị tỏ ra ngượng ngùng. Về đến nhà, cô khép nép khác thường. Khi bà cụ Tứ – mẹ anh Tràng về đến nhà, bà vừa ngạc nhiên, sững sờ vì có người gọi mình là mẹ; vừa đau buồn, tủi hổ, xót thương vì con mình lấy vợ đúng lúc khó khăn nhất không biết có qua nổi giai đoạn này không và người ta lấy con mình vì cái đói, cái khổ. Gạt đi những giọt nước mắt đau buồn, bà động viên các con yêu thương nhau và lạc quan hơn trong cuộc sống. Cuộc sống từ khi có nàng dâu thay đổi hoàn toàn, sự bừa bộn của căn nhà được dọn dẹp sạch sẽ, ngăn nắp, tươm tất. Bữa ăn đầu tiên khi về nhà chồng của cô thị chỉ vỏn vẹn là rau chuối và cám lợn, mọi người ăn trong nghẹn ngào, không ai nói với ai câu nào. Cô thị kể những mẩu chuyện người đi phá kho thóc Nhật cho anh Tràng và bà cụ Tứ, tưởng chừng chỉ là những câu chuyện vô thưởng vô phạt nhưng nó lại là chìa khóa, mở ra trong đầu anh Tràng lá cờ của Đảng và một cuộc sống mới trong tương lai hứa hẹn sẽ tốt đẹp và no đủ hơn hiện tại.
Mẫu 6
Tràng là anh thanh niên ngụ cư nghèo khổ, làm nghề kéo xe bò kiếm sống. Anh vốn ế vợ từ lâu nhưng đột nhiên lại “nhặt” được vợ một cách dễ dàng chỉ bằng vài câu hò đùa và bốn bát bánh đúc. Trên đường về, Tràng vừa ngượng ngùng vừa hãnh diện vì lấy được vợ. Người dân xóm ngụ cư ai nấy đều ngạc nhiên khi thấy có người đàn bà lạ theo Tràng, rồi lại lo lắng cho anh vì đã đèo bòng thêm một miệng ăn giữa nạn đói khủng khiếp. Trước việc con trai lấy vợ, bà cụ Tứ ban đầu rất ngạc nhiên, khi hiểu ra câu chuyện, bà vừa xót xa vừa mừng tủi và chấp nhận cô vợ nhặt là dâu con trong nhà. Sáng hôm sau, Tràng hạnh phúc như vừa ở giấc mơ đi ra. Anh nhận thấy sự đổi thay quang quẻ của ngôi nhà dưới bàn tay của mẹ và vợ. Tràng cảm động, cảm thấy gắn bó với ngôi nhà và thấy mình nên người. Trong bữa sáng đón nàng dâu mới, cả nhà Tràng ăn uống rất đầm ấm, cô vợ ra dáng là người phụ nữ hiền thảo chứ không chao chát, chỏng lỏn như hai lần đầu gặp gỡ. Bà cụ Tứ không chỉ nói toàn chuyện vui, chuyện làm ăn mà còn vui vẻ bưng lên nồi “chè khoán”. Nhưng cả ba người đều im lặng hờn tủi ngay khi gợt miếng đầu tiên vào miệng bởi “chè khoán” thực ra là nồi cám chát xít. Giữa lúc ấy, người con dâu nghe thấy tiếng trống thúc thuế bèn kể chuyện người đói ở Thái Nguyên, Bắc Giang vùng dậy phá kho thóc Nhật. Câu chuyện ấy làm hiện lên trong đầu Tràng hình ảnh đoàn người đói đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Mẫu 7
Trong lúc cả xóm đang thu nhặt xác chết, tiêu điều trong nạn đói, chiều muộn, Tràng – một nông dân nghèo, già, tật nguyền, ngụ cùng xóm – đưa về nhà một người phụ nữ – người vợ luống cuống. Thấy người vợ hấp hối trong hoàn cảnh tuyệt vọng. Với lời bông đùa và lời mời ăn bánh, Trang được người phụ nữ này đồng ý cho theo về nhà. Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón con dâu trong tâm trạng buồn bã, lo lắng, hồi hộp, mong chờ khó tách rời nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng về người đàn bà đi theo mình không có con. Đêm tân hôn của họ diễn ra buồn bã trong không khí chết chóc, ủ rũ từ lối xóm. Sáng hôm sau, cụ Từ và tân nương đội khăn che mặt, quét tước từ trong ra ngoài. Trước cảnh đó, Tràng cảm thấy mình gắn bó, có trách nhiệm với ngôi nhà của mình, thấy mình như một con người. Người vợ ra dáng một người phụ nữ đứng đắn, dịu dàng, không còn vẻ bất cần như lần đầu gặp mặt. Chú Tư vui vẻ đãi hai đứa con vài bát cháo và nồi chè cám. Qua câu chuyện của vợ, Tràng hiểu về Việt Minh và trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh một đám đông kéo nhau đi thăm dò, đón Nhật, phía trước là lá cờ đỏ phấp phới.
Với Mẫu Tóm tắt vợ nhặt kim lân Ngắn Gọn và Đầy Đủ nhất, chắc hẳn các em đã có thể ghi nhớ cốt truyện và hiểu được tình cảnh khó khăn, gian khổ và tia sáng đẹp đẽ trong bi kịch tăm tối của nạn đói rồi đúng không?