Tài liệu được soạn ra nhằm giúp dễ dàng trong việc tìm kiếm thông tin có liên quan đến các tác phẩm trong chương trình Ngữ Văn THPT, có sử dụng và tham khảo rất nhiều tư liệu trên Internet và chỉ mang tính chất tham khảo và hỗ trợ giảng dạy. Dưới đây là Vợ chồng a phủ bình giảng văn học ngữ văn 12, Mời các bạn cùng tìm hiểu.
Tìm hiểu thêm :
Mị và cuộc đời làm dâu trừ nợ nhà thống lí Pá Tra, Mị xuất hiện ngay trong mấy dòng đầu của truyện. Tô Hoài sử dụng thủ pháp miêu tả phác họa ngoại hình để gợi mở nội tâm nhân vật và đặt nhân vật trong sự đối lập với khung cảnh xung quanh: giữa cảnh giàu có, tấp nập của nhà thống lí Pá Tra “ nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” thì Mị luôn được đặt ở vị trí cạnh tảng đá và bên tàu ngựa. Mị như gắn vào những cảnh vật ấy, tạo nên một cảnh sống riêng, cái mảng im lìm, tăm tối, cực nhọc cả kiếp sống đọa đầy, nó phơi bày ra bên cạnh cái giàu sang, tấp nập của nhà thống lí, nhưng chính nó là một phần trong bức tranh trọn vẹn của nhà thống lí. Chân dung nhân vật được khắc họa bằng một nét đậm :” lúc nào cũng vậy, dù quay sợi , thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cúng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.Sau khi dã giới thiệu nhân vật bằng một vài nét phác họa chân dung gây chú ý cho người đọc, tác giả mới kể lại chuyện Mị về làm dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra.Mị là cô gái trẻ, đẹp và giàu lòng yêu đời, lại chăm chỉ và hiếu thảo. Mị đang sống những ngày tươi đẹp của tuổi yêu đương, dù trong cảnh nghèo khó. Không ít chàng trai đã theo đuổi cô gái nghèo ấy. Mùa xuân đến, Mị đang sống trong niềm sung sướng hồi hộp chờ nghe tiếng sáo quen thuộc của người yêu. Thế nhưng chính trong một đêm xuân như thế, Mị đã bị bắt cóc về làm dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra.
Nguyên do chỉ là món nợ truyền kiếp của bố mẹ Mị. Ngày trước hai người lấy nhau không có tiến cưới, phải đến vay tiền thống lí, bố của Pá Tra. Mị đã phải mang món nợ truyền kiếp ấy như một thứ “ tội tổ tông” của người nghèo, từ lúc ra đời! Tô Hoài đã tố cáo một hình thức bóc lột phổ biến của bọn phong kiến ở miền núi cũng như miền xuôi: nạn cho vay nặng lãi. Nó đã cột chặt bao nhiêu người nghèo vào số phận nô lệ, phụ thuộc vào bọn chủ nợ giàu có.Trong thời gian đầu bị bắt về làm vợ A Sử, Mị đã phản kháng quyết liệt: hàng mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, rồi Mị định tự tử bằng lá ngón. Nhưng có chết thì món nợ vẫn còn. Bố già còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Thế là mị không đành lòng chết.Những năm tháng làm dâu trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài triền miên những cực nhọc vất vả nối tiếpkhông dứt đến mức dường như đã làm tê liệt cả ý thức về bản thân và những mong muốn thay đổi số phận ở Mị. “ Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Củng cố thêm cái áp bức nặng nề ấy còn là sự áp chế về tinh thần bởi mê tín, thần quyền. Mị bị rằng buộc bởi ý nghĩ rằng bố con Pá Tra đã trình ma mình là người nhà nó thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác trong nhà nó mà thôi. Chân dung Mị được khắc đậm một nét này : “ cúi mặt không nghĩ ngợi nữa”, “ mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào “ cũng cúi mặt buồn rười rượi”. Căn buồng Mịnằm lúc nào cũng âm u, chạng vạng với cái cửa sổ “ một lỗ vuông bằng bàn tay”, là một biểu tượng gắn với cuộc đời nhân vật. Cái cửa sổ “ lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay nắng.
Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Thậm chí Mị cũng không có ý nghĩ về cái chết nữa: “ lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Mị sống như một cái bóng vật vờ, sống mà như đã chết, không còn cả ý thức về thời gian nữa. Mị không còn nhớ mình về nhà Pá Tra làm dâu bao nhiêu năm. Với Mị sự chuyển đổi của thời gian trong một ngày hay trong một năm, cũng chẳng gợi cho cô ấn tượng hay cảm xúc gì, vẫn chỉ là cái màu nhờ nhờ trăng trắng “ không biết là sương hay là nắng”, cái sắc màu mờ mờ đục đục của những hoàng hôn đằng đẵng, buồn tẻ và tê tái.Ở đoạn đầu của truyện, cuộc sống của Mị bị giam hảm trong cái không gian chật hẹp và tù đọng của nhà Pá Tra, với một nhịp điệu buồn tẻ nặng nề của những công việc khổ sai lặp đi lặp lại, trong một thời gian ngưng đọng như không dĩ vãng và không tương lai. Lời trần thuật với nhịp chậm, trầm lặng tạo ra giọng điệu có chiếu sâu thấm đượm nỗi xót xa và thương cảm.
+) Sự trỗi dậy mãnh liệt của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc ở MịPhải chăng tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh? Cô Mị một thời trẻ đẹp, khát khao hạnh phúc đã hoàn toàn cam chịu thân phận nô lệ, sống mà như đã chết. Không, ngòi bút của Tô Hoài không chỉ phơi bày cái đen tối, ảm đạm của cuộc đời mà còn thiết tha hướng tới phía sự sống và ánh sáng. Ngòi bút của nhà văn đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sau tiềm thức nhân vật để khơi bừng lên chút ánh sáng và niềm ham sống khát khao hạnh phúc.
Sự thức tỉnh đời sống ý thức của Mị trước hết là nhờ tác động của hoàn cảnh, một hoàn cảnh khá “ điển hình”-đấy là mùa xuân về trên miền núi cao Tây Bắc. mùa xuân gợi dậy ở con người, ở thiên nhiên sức sống tiềm tàng và những khát vọng. Người Mông ăn tết khi lúa đã gặt xong, mùa xuân có thêm niềm vui thu hoạch mùa màng. Cái tết năm ấy đến vào lúc gió và rét dữ dội, nhưng vẫn không ngăn được sắc màu của mùa xuân trong thiên nhiên và cả ở con người. Sự sống của tạo vật và con người như được mùa xuân khơi dậy, làm bừng tỉnh. Và thời điểm để ngọn lửa sống trong lòng Mị bừng lên đã đến. Đấy là một đêm tình mùa xuân. Tiếng sao gọi bạn tình cứ thiết tha, bồi hồi “ tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Với mị tiếng sáo gọi bạn là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát vọnghạnh phúc:” Ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị” hết núi này snag núi khác. Cái nồng nàn của đêm xuân lại được tăng lên bới bữa rượu ngày tết, trong tiếng chiêng đánh ầm ĩ và những người lên đống, người hát : “ ngày tết Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát, rồi say..”. Chính trong một trạng thái đã được kích thích bởi men rượu, bởi những âm thanh náo động của bữa cơm cũng ma trong nhà Pá Tra và sựu lôi cuốn của tiếng sáo gọi bạn ngoài đường, Mị đã vượt ra khỏi tâm trang thờ ơ, nguội lạnh lâu nay của mình. Dấu hiệu đầu tiên là Mị sống lại với những hồi tưởng về những ngày xuân quá khứ, những kỉ niệm đẹp về ngày trước, những ngày hạnh phúc ngắn ngủi của tuổi trẻ. Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống “ phi thời gian”, sống mà như đã chết bấy lâu nay, rồi Mị sống lại với niềm ham sống của tuổi trẻ :” mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên tháy vui sướng như những đêm tết ngày trước,
Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén, tưởng như tắt lịm, thì nay bỗng bật trào dậy. Phản ứng đầu tiên đến với Mị là ý nghĩ :” nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Ý nghĩ về cái chết lúc này là sự phản kháng với hoàn cảnh, nó chứng tỏ rằng Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót dai dẳng của mình. Trong khi ấy thì tiếng sáo-biểu tượng của khát vọng tình yêu và tự do-cứ theo sát diễn biến tâm trạng của Mị. Nó là ngọn gió thổi bừng lên đốm lửa trong lòng Mị. Từ chỗ là một hiện tượng ngoại cảnh, tiếng sáo đã thâm nhập thế giới nội tâm của Mị, trở thành một hiệnh hữu ở trong tâm linh nhân vật : “ Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”.Đến đấy đã xảy ra bước phát triển quyết định: từ những sôi sục trong tâm tư, Mị bước tới hành động. Đàu tiên là một hành động có nhiều ý nghĩa : “ Mị đến góc nhà, lấy một ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèncho sáng”. Đấy là một hành động của sự thức tỉnh, Mị thắp sáng một ngọn đèn trong căn phòng vốn âm u, mờ mịt của mình, cũng tức là Mị đã thắp lên một ánh sáng trong cuộc đời tăm tối triền miên của mình trong nhà Pá Tra. Và hành động này đã thúc đẩy hành động tiếp theo, như những đợt sóng tiếp nhau. Dường như không đếm xỉa gì đến những trói buộc khẳt khe của nhà Pá Tra, đến A Sử, Mị tự mình hành động như một con người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại tóc, rút lấy cái váy hoa, sửa soạn đi chơi tết.Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mạnh mẽ thì nó bị dập xuống phũ phàng: A Sử bước vào, thản nhiên, lầm lì, trói đứng Mị vào cây cột nhà, tóc Mị xõa xuống, A sử quấn luôn tóc lên cột, rồi y tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại. Cái kĩ càng, rành rẽ của từng động tác biểu hiện một sự tán ác đến thản nhiên của A Sử.
mạnh hơn cả nỗi lo sợ cho chính mình. Từ tình cảm và ý nghĩ ấy,ắt dẫn tới hành động quyêt định của Mị: cắt dây trói cứu A Phủ. Khi ấy Mị cũng đã cắt sợi dây trói buộc đời mình với nhà Pá TraĐể tự cứu mình, Mị đã chạy theo A Phủ thoát khỏi địa ngục nhà Pá Tra. Mặc dù đây chỉ là những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính từ những khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy mà họ sẽ nhanh chóng đến với cách mạng, để giải phóng triệt để cho số phận của mình và của những người nghèo khổ khác+) Kết luậnThành công của truyện Vợ chồng A Phủ trước hết là ở cốt truyện mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giác ngộ của người nông dân miền núi, cũng như của nhân dân lao động nói chung trong sự gặp gỡ cách mạng. Mô típ cốt truyện này rất tiêu biểu cho các tác phẩm văn xuôi trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, cũng như cá trong giai đoạn văn học từ 1945-1975. Nhưng tác phẩm gây lại được ấn tượng sâu sắc là ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nhân vật vừa mang tính tiêu biểu cho giai cấp tầng lớp, vừa có được nét cá tính khá rõ. A Phủ thì mạnh mẽ gan góc mà bộc trực, cả tin, chất phác; Mị giàu sức sống nhưng trầm lắng hơn, có một đời sống nội tâm sôi nổi dưới vẻ ngoài lặng lẽ.Ở truyện Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã có một bút pháp miêu tả tâm lí khá sắc sảo, tinh tế, nhất là ở phần đầu của truyện. Những đoạn miêu tả diễn biến trong tâm hồn Mị, sự thức tỉnh của Lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc của Mị là những đoạn văn đặc sắc. Điều này càng có ý nghĩa nếu ta đặt trong tình hình chung của văn
xuôi thời kháng chiến chống thực dân Pháp, khi mà nghệ thuật miêu tả tâm lí chưa phải đã được chú ý đúng mức.Vợ chòng A Phủ còn lôi cuốn người đọc bởi chất thơ trong sáng vời vợi. Chất thơ ấy toát lên từ chủ đề của tác phẩm, từ tâm hồn đôn hậu, chất phác của nhân vật chính, thấm đượm trong những bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc và đường nét uyển chuyển, hài hòa, những cảnh sinh hoạt, phong tục giàu chất trũ tình của đồng bào miền núi…Tô Hoài đã vượt qua những hạn chế trong các tác phẩm đầu của mình viết về miền núi: Núi cứu quốc, Xuống làng. Nhà văn không còn dừng ở sự quan sát từ bên ngoài mà đã hòa nhập sâu sắc vào cảnh sống, vào số phận, cuộc đời các nhân vật mình, tạo ra một cái nhìn và giọng điệu trần thuật gần gũi, thống nhất giữa người kể chuyện và nhân vật. Giá trị nhân đạo của tác phẩm càng giàu thêm bởi ngòibút của nhà văn đã đồng cảm, trân trọng và khơi dậy ở nhân vật của mình những phẩm chất đẹp đẽ, những giá trị chân chính, những khát vọng sống hạnh phúc và tự do. Đồng thời tư tưởng nhân đạo cách mạng giúp cho nhà văn hướng tới sự mô tả quá trình giải phóng của nhân dân lao động theo con đường cách mạng như một quy luật tất yếu. Các nhân vật anh Núp (Đất nước đứng lên), chị Tư Hậu ( Một chuyện chép ở bệnh viện) , chị Sứ( Hòn đất) , chị Út Tịch ( Người mẹ cầm súng) sẽ là sự tiếp nối tự nhiên của Mị và A Phủ, trở thành những tính cách anh hùng