khổ 4 bài việt bắc

Phân tích bài việt bắc đoạn 4 ( Tố Hữu – Ngữ Văn 12 )

Phân tích bài việt bắc đoạn 4 ( Tố Hữu – Ngữ Văn 12 ) dưới đây sẽ giúp các em cảm nhận được nỗi nhớ tha thiết cùng tình cảm gắn bó thủy chung giữa người người kháng chiến với con người và mảnh đất chiến khu Việt Bắc. Đây cũng là câu hỏi có trong các đề thi, Hi vọng các em có thể dựa vào dàn ý cũng như bài văn mẫu dưới đây để viết thành bài văn hoàn chỉnh đạt được điểm số cao.

Dàn ý phân tích bài việt bắc đoạn 4

Dàn ý số 1 :

1. Mở bài

– Giới thiệu về bài thơ Việt Bắc

– Khái quát nội dung khổ thơ thứ 4

2. Thân bài

– Mượn lối đối đáp trong ca dao cùng lối xưng hô “mình-ta” làm cho lời thơ trở nên tha thiết, ngọt ngào.

– “Ta với mình, mình với ta” câu thơ thể hiện sự đồng điệu, thống nhất trong tình cảm của người đi- người ở lại.

– Tình cảm thủy chung, trước sau như một “sau trước mặn mà đinh ninh”

– Cách so sánh độc đáo “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”:

“Nguồn” là nơi bắt đầu của dòng nước, lúc nào cũng dồi dào, không bao giờ vơi cạn
Tình cảm của người cách mạng luôn sục sôi, đong đầy, không vì hoàn cảnh thay đổi mà trở nên đổi thay.
– “như nhớ người yêu” cụ thể hóa nỗi nhớ: tha thiết, trào dâng, luôn thường trực.

– Hình ảnh “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” mở ra bức tranh đẹp của núi rừng và nỗi nhớ thường trực ngày đêm trong trái tim người cách mạng.

– Nỗi nhớ mở rộng theo không gian và thời gian:

Nhớ về tất cả những gì thân thuộc nhất: rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê
Nhớ về những ngày tháng đồng cam cộng khổ chia sẻ những “đắng cay ngọt bùi”
3. Kết bài

Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn trích.

Tìm hiểu thêm : Phân tích khổ ta về mình có nhớ ta 

Dàn ý số 2 :

I. Mở bài

– Việt Bắc là tập thơ xuất sắc của Tố Hữu nằm trong tập thơ Việt Bắc, sáng tác trong giai đoạn 1946 – 1954.

– Bằng lối đối đáp và cách sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình – ta” quen thuộc của ca dao, bài thơ như một bài hát giao duyên thể hiện ân tình sâu đậm giữa đồng bào Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến về xuôi.

– Đoạn thơ này là lời người cán bộ kháng chiến về xuôi đáp lại lời nhắn nhủ của đồng bào Việt Bắc. Trong đoạn thơ, ta thấy cảnh vật và con người Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ người đi thật đẹp và cũng thật tình nghĩa. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha và sâu đậm, bao phủ cả không gian, thời gian và đầy ắp tâm trạng của người cán bộ kháng chiến.

II. Thân bài

1. Mở đầu đoạn thơ là lời đáp của người ra đi khẳng định tình cảm thuỷ chung của mình:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”

– Người ra đi đã khẳng định “mình đi, mình lại nhớ mình” là để trả lời cho câu hỏi đặt ra của đồng bào Việt Bắc ở trên (“Mình đi mình có nhớ mình”…). Đây là lời khẳng định: người cán bộ kháng chiến về thành nhưng vẫn nhớ đến những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc. Nói cách khác, đây là lời khẳng định phẩm chất đạo đức của người cán bộ kháng chiến.

– “Ta – mình”, “mình – ta” quấn quýt, quyện hoà, ta với mình là một. Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh. Đinh ninh là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi, gắn bó, thuỷ chung với Việt Bắc. Việt Bắc là cái nôi cội nguồn của cách mạng làm sao dễ dàng quên.

– Sự so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã khẳng định sự chung thuỷ son sắt với Việt Bắc như tình yêu đôi lứa bền chặt, mãi mãi, không bao giờ cạn như nguồn nước kia.

+ Trong tâm thức của người Việt Nam, nước nguồn được chảy ra vì công lao, tình nghĩa vô bờ bến của người mẹ, tuôn chảy bất tận không bao giờ cạn. Bao nhiêu nước thì bấy nhiêu nghĩa tình sâu nặng, như nghĩa mẹ tình cha.

+ “Bao nhiêu” được so sánh với “bấy nhiêu”. Đó là cách so sánh giữa một sự vô tận với một sự vô tận. Đọc câu thơ, ta có cảm giác dường như đó không còn là những dòng chữ im lặng nữa mà là tiếng lòng được thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở người về trong giây phút li biệt.

2. Nhớ thiên nhiên thanh bình, yên ả và thơ mộng:

– Nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc vừa đa dạng, vừa cụ thể. Trong cuộc đời, có mảnh đất nào đã đi qua, đã từng gắn bó mà khi ra đi lại không để thương nhớ cho lòng người. Trong hoài niệm của nhà thơ, Việt Bắc không chỉ là những ngày mưa rừng sương núi mà còn là một vùng đất thơ mộng, thanh bình, yên ả gợi bao nỗi nhớ niềm thương:

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

+ Nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như “nhớ người yêu”. Một nỗi nhớ cháy bỏng, tha thiết, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là phải xa nhau thì nỗi nhớ càng cồn cào, da diết khôn nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng với thiên nhiên, với đồng bào Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Vì vậy, cảnh và người phút chốc lại trở về vơi đầy trong tâm trí của người ra đi.

+ Nỗi nhớ ấy vừa được so sánh với “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”, vừa gắn với không gian, thời gian đầy ắp kỉ niệm:

“Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” vừa là cảnh thật vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Trăng là ban đêm, nắng là ban ngày. Như vậy, nỗi nhớ ở đây bao trùm khắp cả không gian và thời gian.

Nỗi nhớ còn rộng lớn, bao phủ khắp không gian, “đầu núi”, “lưng nương”, từ “rừng nứa”, “bờ tre” đến “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”. Nhớ những đêm trăng sáng yên ả, thanh bình, những buổi chiều nắng trải vàng ấm áp trên nương. Nhớ cảnh núi đèo, bản làng chìm trong sương khói, cảnh bếp lửa bập bùng trong mỗi đêm đông và hình ảnh con người thân thương, tảo tần đi về hôm sớm.

+ Điệp từ “nhớ” đặt đầu các câu thơ làm nổi bật lên nỗi nhớ ngày càng mênh mông, bất tận. Ở đoạn thơ này, thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” mà ấp áp, vui tươi. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực vừa mộng, vừa đơn sơ vừa thi vị, gợi rõ nét sự riêng biệt, độc đáo, khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống, gắn bó máu thịt với Việt Bắc mới có cái nhìn toàn diện, có nỗi nhớ da diết và cảm nhận sâu sắc, thấm thía đến như thế:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”

(Chế Lan Viên)

Đối với những mảnh đất giàu tình nghĩa, khi ta sống ở đó rồi, lúc ra đi ta cảm thấy trái tim cứ dày lên biết bao nỗi vấn vương thương nhớ, nhớ cả những vật vô tri tầm thường nhất mà ta vô tình bắt gặp:

Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

3. Nhớ nhất là nếp sống của con người Việt Bắc vô cùng gian khổ nhưng nghĩa tình sâu nặng:

“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi

– Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc tuy nghèo khó nhưng là những con người giàu tình nghĩa. Họ sẵn sàng chia sẻ cho người cán bộ kháng chiến từng “bát cơm”, “củ sắn lùi”, mảnh “chăn sui”. Hình ảnh thơ thật mộc mạc, giản dị như chính bản thân cuộc sống vậy. Ở đây không phải sẻ chia những gì lớn lao như tính mệnh hay xương máu, mà sẻ chia những sự vật bình thường nhỏ nhoi hàng ngày. Quả chẳng là đáng bao nhiêu nhưng nghĩa tình thì rất nặng. Cuộc sống những ngày ấy tình quân dân như cá với nước, thân tình như trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.

III. Kết bài

– Đoạn thơ là tiếng lòng của người cán bộ kháng chiến về xuôi đối cảnh vật và con người Việt Bắc. Trong nỗi nhớ của người ra đi, cảnh vật Việt Bắc hiện lên thật gần gũi thân thương và thật đẹp; con người Việt Bắc tuy đời sống thiếu thốn, gian khổ nhưng đầy tình nghĩa.

– Thể thơ lục bát quen thuộc và những hình ảnh được lấy ra từ đời sống thực tế, điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần góp phần thể hiện thành công nỗi nhớ vừa chân thành tha thiết, vừa mênh mông bất tận của người cán bộ về xuôi đối với Việt Bắc, tạo nên sự rung động sâu sắc trong lòng người đọc

khổ 4 bài việt bắc

Phân tích bài việt bắc

Mẫu 1 :

Những năm tháng hào hùng của dân tộc đã được thơ ca văn học Cách Mạng ghi lại trong những trang văn, trang thơ. Trong đó phải kể đến tác phẩm “Việt Bắc” của Tố Hữu là khúc ân tình thủy chung của đồng bào kháng chiến và chiến sĩ. Nổi bật là khổ 4 – đoạn thơ là nỗi nhớ thiên nhiên và con người việt bắc trong kháng chiến:

“- Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

Năm 1954 kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lặp lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ , bộ đội rời Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Trong không gian lưu luyến đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những chiến sĩ cách mạng nhà thơ Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc. Đoạn trích đã miêu tả sâu sắc cuộc chia ly giữa cán bộ và người dân Việt Bắc gợi lại cuộc kháng chiến anh hùng mà đầy nghĩa tình.Đó là một cuộc chia tay đầy bịn rịn lưu luyến, đầy nghĩa tình sâu đậm.

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình”

Hai câu thơ đầu là lời hỏi đáp của ta – mình của người cán bộ về xuôi: “ta hỏi mình có nhớ ta”. Người cách mạng về xuôi bày tỏ nỗi lòng của mình với người Việt Bắc, dù xa nhưng người chiến sĩ vẫn luôn một dạ một lòng thủy chung hướng về Việt Bắc:

“Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

Cuộc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn, giữa người ở lại và người ra đi: “mình đi, mình lại nhớ mình. Sử dụng hình ảnh so sánh: “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” là một hình ảnh đặc sắc , “nguồn” là nơi bắt đầu vì thế lúc nào cũng đầy, ở đây được so sánh với “nghĩa tình” đã cho ta thấy tình cảm lúc nào cũng dạt dào và đong đầy chất chứa ko bao giờ cạn hao đi. “Nhớ gì như nhớ người yêu” tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh rất độc đáo so sánh nỗi nhớ của người chiến sĩ với nỗi nhớ “người yêu” một tình cảm cháy bỏng rạo rực luôn dâng trào.

“Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

Người chiến sĩ nhớ về cuộc sống sinh hoạt của người dân Việt Bắc nấu bữa tối, khói từ các ống bếp bốc ra nghi ngút.Rồi đêm tới lại bập bùng bên bếp lửa cháy rực cùng nhau quây quần kể chuyện, múa hát. Rồi nhớ về:

“Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”.

Nhớ những thứ thân thuộc khi ngày ngày gắn bó, với những địa điểm hết sức nổi tiếng như: “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” , “suối Lê” ở đây chính là suối Lê Nin.Lại trở về với cách xưng hô mình và ta:

“Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

“Đắng cay ngọt bùi” là những khó khăn gian khổ vất vả , “Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…” ở đây muốn chỉ những người chiến sĩ và người dân Việt Bắc đã cùng nhau trải qua những khó khăn, gian khổ, họ đã cùng trải qua. Với việc sử dụng sáng tạo hài đại từ “mình, ta” với lối đối đáp giao duyên trong dân ca. Bài thơ Việt Bắc thể hiện tính dân tộc đậm đà. Cả bài thơ khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trọn niềm tự hào dân tộc.Các câu thơ đậm chất dân tộc, trong việc sử dụng hình thức đối đáp với cặp đại từ nhân xưng mình – ta, ngôn ngữ, hình ảnh thơ giản dị, nhịp thơ uyển chuyển, sử dụng thể thơ dân tộc – thể thơ lục bát… Bài thơ cho chúng ta thấy nghĩa tình của người dân Việt trong những năm tháng khó khăn, gian khổ của cuộc chiến tranh, giành độc lập, tự do cho dân tộc.

Đoạn thơ đã khép lại nhưng lại để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng về hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc với những hình ảnh giản dị, đó là khói của bếp lửa, là hình ảnh suối đèo, bờ tre thân thuộc…Tất cả đã để lại một hoài niệm khó quên trong lòng người ra đi về cái nghĩa, cái tình của đồng bào thân thương cùng nhau chia sẻ miếng cơm, manh áo trong những giây phút ngặt nghèo, từ đó cũng cho thấy sự đoàn kết của hậu phương và tiền tuyến trong giai đoạn lịch sử thăng trầm bấy giờ. Nó cũng là lời nhắc nhở cho thế hệ hôm nay đang được sống trong hòa bình cần trân trọng lịch sử, trân trọng những thành quả của cha ông để lại, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Tìm hiểu thêm :Sơ đồ tư duy 8 câu đầu bài việt bắc

Mẫu 2 :

Chế Lan Viên đã từng khẳng định Thơ cần có hình cho người ta thấy có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim. bắt rễ sâu xa từ hiện thực đời sống chính trị tưởng như không hề lãng mạn, chất thơ bay bổng trong tác phẩm của Tố Hữu đã làm rung động lòng người bởi những hình ảnh thân thương gần gũi và triết lý về con người và cuộc đời bởi tình người thắm thiết đậm đà không phôi pha theo thời gian. đoạn trích Việt Bắc là một trong những minh chứng tiêu biểu cho khả năng lay động trái tim con người tiêu biểu cho tài năng thơ phong cách thơ Tố Hữu một thi sĩ được mệnh danh là lá cờ đầu thơ ca cách mạng Việt Nam. Và đoạn thơ thứ tư là một trong những khúc ca của nỗi nhớ đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ bạn đọc.

Đoạn thơ tiếp nối những lời nhắn nhủ, tâm tình của người ở lại trao cho người ra đi.

“Ta với mình mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”

Dường như thấu tỏ nỗi băn khoăn do dự đoán có nhớ không của người ở lại mình ra đi đã khẳng định chắc chắn sắt son câu trả lời vang lên như một lời thề. Cặp đại từ ta mình hòa quyện quấn quýt với lời thề thủy chung gắn bó. “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”, không bao giờ thay đổi, không bao giờ vơi cạn như nước nơi thượng nguồn. Câu thơ “nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” vừa là hình ảnh so sánh đậm màu sắc của văn học dân gian, giản dị mà sâu sắc, lại vừa như lời đồng vọng, nguyện thề trước lời nhắn nhủ thiết tha của người ở “…nhìn sông nhớ nguồn”. Cuộc chia tay của người dân Việt Bắc và con người kháng chiến cũng đầy bịn rịn, chất chứa nhiều nhớ thương nhưng không muốn đã đâm lễ khi những cuộc chia tay trong văn học cổ:

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

Có lẽ đây là cuộc chia tay của những con người vừa làm nên chiến thắng, đó là cuộc chia tay trong yêu thương và cả trong niềm vui niềm tin tưởng của ngày mai gặp lại.

Theo sau lời khẳng định thủy chung sắt son, nỗi nhớ cảnh là người Việt Bắc của về trong tâm trí người ra đi.

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

Theo Chế Lan Viên, thơ Tố Hữu nói các vấn đề bằng trái tim của một người đầy say đắm. Ở đây nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như nỗi “nhớ người yêu” một nỗi nhớ cháy bỏng, nồng nàn, thiết tha, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là khi về cách xa thì nỗi nhớ càng cồn cào da diết khôn nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng từ thiên nhiên và con người Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức , của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết. Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm 2 nửa thời gian: vế đầu là hình ảnh gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược – nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu . Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm. Vì vậy cảnh và người phút chốc trở lại đầy vơi trong tâm trí của người ra đi.

Theo mỗi điệp khúc “nhớ” là một nét đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vị trong những không gian và thời gian khác nhau. Một vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiếu lấp ló lương, những bản làng bồng bềnh trong khói, trong sương, những rừng nứa bụi tre những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê để vơi trong nỗi nhớ. Bằng phép liệt kê làm cho những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến hình ảnh khác. Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu ,lúc mới quen nhau. Đây cũng là những danh từ chung mô tả đặc điểm của không gian Việt Bắc với bao nét đẹp mơ mộng. Còn “Ngòi Thia , sông Đáy , suối Lê … là những địa danh lịch sử, đã từng khắc ghi trong lịch sử Cách mạng – nơi đã diễn ra nhiều chiến công oanh liệt. Sương khói hư vô mờ mịt mơ hồ. Nhưng đó là động thái chuẩn bị trong một thứ ánh sáng đặc biệt hiện ra “sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. sự đối lập giữa cái lạnh và cấm cái trừu tượng là cụ thể đã làm nổi bật tình người ấm áp. Tấm lòng của đồng bào với cách mạng đáng quý đến nhường nào, vì thế mà thương, mà nhớ, thương nhớ đến xót xa. Nhịp thơ mượt mà êm ái như người đọc vào những kỉ niệm bâng khuâng. đó là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của thiên nhiên và con người mang đậm chất Việt Bắc. Ở đây thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” nữa mà ấm áp, tươi vui. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực, vừa mộng, vừa đơn sơ của thị vị, gợi rõ nét riêng biệt độc đáo khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống gắn bó máu thịt với Việt Bắc để có cái nhìn toàn diện của nỗi nhớ da diết da và cảm nhận sâu sắc đến thế. Như Chế Lan Viên, một người con cũng từng gắn bó với Việt Bắc đã viết:

“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

Trên phông nền thiên nhiên Việt Bắc bảo làn khói sương hình ảnh con người thoáng qua nhưng đem lại hơi ấm và màu sắc rực rỡ cho cảnh thiên nhiên. Trong dòng ký ức đứt, nối, mở tỏ, những dòng thơ sau hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên thật thân thương mộc mạc gắn liền với kỷ niệm của một thời không thể nào quên. Việt Bắc để trở thành người yêu vì thương của tác giả và của những con người kháng chiến.

“Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi”.

Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc đi nhiều khó nhưng đầy ắp nghĩa tình. Trong ký ức của người kháng chiến những tháng ngày khó khăn thiếu thốn trở nên thật ấm áp biết bao. Dù gian nan, dù khổ cực, mình với ta vẫn gắn bó đồng hành bên nhau.

Việt Bắc ru hồn người đọc bằng giai điệu ngọt ngào, tha thiết của nỗi nhớ, sự cân đối nhịp nhàng trong từng lời thơ, bên cạnh những hình ảnh gần gũi mà gợi cảm. Sự kết hợp hài hòa ấy đã đánh thức dậy trong lòng người ý thức trách nhiệm với dân tộc, tình quân dân keo sơn gắn bó, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất, ân nghĩa, thủy chung của con người cách mạng. Việt Bắc với tiếng thơ tha thiết, điệu thơ êm ái là khúc ca trữ tình nồng nàn sôi nổi bậc nhất trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại.