phân tích chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn minh châu

Mẫu Phân tích chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn minh châu Ngữ Văn 12

Bài văn ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là một tác phẩm văn học mang tính nhân văn và biểu cảm. Tác giả thông qua câu chuyện của một chiếc thuyền, tả lại cuộc sống, tình yêu và những tâm tư của con người. Dưới đây là một số Mẫu Phân tích chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn minh châu Ngữ Văn 12, từ đó các bạn có thêm nhiều nguồn tư liệu ôn tập, nhanh chóng nắm được các luận điểm, luận cứ rõ ràng để biết cách viết bài văn hay.

Thông tin thêm :

Dàn ý phân tích truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”

I. Mở bài

– Nguyễn Minh Châu là một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”. Ông không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của nhà văn, luôn thiết tha truy tìm những hạt ngọc ẩn giấu nơi bề sâu tâm hồn.

– Chiếc thuyền ngoài xa in trong tập Bến quê, tác phẩm đem đến cái nhìn đúng đắn về cuộc sống và con người.

II. Thân bài

1. Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh

a. Phát hiện “cảnh đắt trời cho”

– Phùng là người say mê nghệ thuật trong một thoáng nhìn anh đã phát hiện ra cảnh đắt trời cho để chớp lấy,

+ Nhận xét “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích. Đây là cảnh tượng kì diệu của thiên nhiên, cuộc sống khi nhìn từ xa.

+ Phùng bối rối trước cái đẹp: “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”, nhận ra rằng “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, anh nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật.

b. Phát hiện bức tranh cuộc sống đầy nghịch lí

– Từ chiếc thuyền nhỏ đẹp đẽ vừa rồi, Phùng nhận thấy:

+ Người đàn bà thô kệch xấu xí, mặt đầy sự mệt mỏi bước ra và một lão chồng với tấm lưng rộng, mái tóc tổ quạ, đôi mắt độc dữ cùng bước ra từ con thuyền.

+ Lão chồng “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn”.

+ Trong khi ấy, người đàn bà chỉ cam chịu, không kêu van, hay chống trả, chạy trốn.

– Thái độ của Phùng: “kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Phùng ngỡ ngàng nhận ra bản chất thực sự của cái đẹp anh vừa bắt được.

– Nhận xét: đừng nhầm lẫn giữa hiện tượng bên ngoài và bản chất bên trong

2. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện

– Khi chánh án Đẩu đề nghị chị nên li hôn, chị ta van xin “con lạy quý tòa …đừng bắt con bỏ nó”, theo chị:

+ Người đàn ông bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác, anh ta chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Người chồng là chỗ dựa khi có biển động.

+ Chị không thể một mình nuôi nấng trên dưới 10 đứa con, vả lại “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái vui vẻ, hòa thuận”.

– Qua câu chuyện và thái độ của người đàn bà, có thể nhận thấy người đàn bà là hiện thân cho kiếp người bất hạnh bị cái đói khổ, cái ác và số phận đen đủi dồn đến chân tường. Nhưng ở chị ta lại có một tâm hồn vị tha, tình yêu thương tha thiết và là người từng trải, sâu sắc.

– Thái độ của chánh án Đẩu và nhiếp ảnh Phùng khi người đàn bà quyết không bỏ chồng:

+ Cả hai đều thấy giận dữ và bất bình

+ Nhưng sau khi nghe tâm sự của người đàn bà anh ta thấy như có “một cái gì vừa mới vỡ ra”.

– Nhận xét: Ban đầu, họ quen nhìn đời bằng con mắt đơn giản một chiều (nghĩ đơn giản rằng những kẻ đi theo ngụy là xấu “lão ta hồi 75 có đi lính ngụy không?”), chỉ biết qua lí thuyết sách vở, không sẵn sàng đối mặt với nghịch lí cuộc đời.

– Bài học rút ra: phải có cái nhìn đa diện về cuộc sống, không nhìn hiện tượng đánh giá bản chất.

3. Tấm ảnh được chọn

– Nghệ sĩ Phùng vẫn mang tấm ảnh đó về tòa soạn, quả nhiên tâm ảnh đã được chọn, được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật:

– Phùng vẫn luôn nhận thấy trong bức ảnh của mình:

+ “cái màu hồng hồng của sương mai” (biểu tượng cho nghệ thuật) và người đàn bà nghèo khổ bước ra từ bức tranh (hiện thân cho đời thực).

– Nhận xét: nghệ thuật chân chính không bao giờ tách rời khỏi cuộc sống.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận riêng về tác phẩm.

– Giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện đặc sắc, cốt truyện hấp dẫn. Khắc họa nhân vật sắc sảo, điểm nhìn trần thuật linh hoạt, …

– Tác phẩm đã đem đến bài học về cách nhìn cuộc sống và con người: phải nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện bản chất đằng sau vẻ bề ngoài của hiện tượng.

phân tích chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn minh châu

Phân tích chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn minh châu

Mẫu số 1

Nhà văn Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông tham gia bộ đội năm 1950, chiến đấu ở vùng địch hậu đồng bằng Bắc Bộ rồi vào chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên. Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ, đồng thời cũng là người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn học từ sau năm 1975. Ở giai đoạn trước, ông là ngòi bút có khuynh hướng lãng mạn, sử thi. Ở thời kì sau, ngòi bút của ông chuyển sang đề tài thế sự, quan tâm tới đời sống của con người trong đời thường với những vấn đề về đạo đức, về triết lí nhân sinh. Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970), tiểu thuyết Dấu chân người lính (1972) với hình tượng trung tâm là những người lính đang chiến đấu chống quân xâm lược Mĩ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã khẳng định tài năng và tên tuổi Nguyễn Minh Châu trong văn học hiện đại. Ông cũng là nhà văn đi đầu trong công cuộc đổi mới văn học với mối quan tâm đặc biệt tới phẩm giá, đạo đức, quan niệm sống của 1 con người trong đời thường. Điều đó được thể hiện qua các tác phẩm như tiểu thuyết Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977) và những truyện ngắn như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quế, Khách ở quê ra, Bức tranh. Năm 2000, Nguyễn Minh Châu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chi Minh về văn học và nghệ thuật.

Chiếc thuyền ngoài xa sáng tác năm 1983 là truyện ngắn xuất sắc nhất của ông ở thời kì sau; nội dung kể về chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh, qua đó thể hiện cách nhìn của tác giả về hiện thực cuộc sống, một cái nhìn thấu hiểu và thấm đẫm tình thương cùng sự băn khoăn, day dứt vể thân phận con người. Tác giả cùng gửi gắm trong truyện ngắn này những chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời. Người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách hời hợt, giản đơn mà cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người bằng cái nhìn tỉnh táo, sáng suốt của lí trí kết hợp với rung động chân thành của trái tim nhân ái.

Tác giả đã thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người lao động trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn và hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Những “hạt ngọc tâm hồn” không hiện ra trong lửa đạn chiến tranh, mà lẩn khuất giữa đời thường đầy sóng gió.

Nói đến nghệ thuật viết truyện ngắn, người ta thường nhắc đến ba yếu tố: Nhân vật, giọng điệu trần thuật và tình huống truyện. Trong đó, việc sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo đóng vai trò then chốt, quyết định thành công của tác phẩm. Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn: tình huống hành động, tình huống tâm trạng và tình huống nhận thức. Nếu tình huống hành động chủ yếu nhằm tới hành động có tính bước ngoặt của nhân vật, tình huống tâm trạng chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc của nhân vật thì tình huống nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lí của nhân vật. Chiếc thuyền ngoài xa sở dĩ được đánh giá là tác phẩm xuất sắc bởi tác giả đã xây dựng được một tình huống truyện hết sức độc đáo. Đó là tình huống nhận thức và khám phá về cuộc sống và nghệ thuật của hai nhân vật Đẩu và Phùng.

Tình huống bất ngờ trong truyện đã làm thay đổi nhận thức của hai người trước những nghịch lí của cuộc sống. Trong khi thiên nhiên có vẻ đẹp toàn bích thì cảnh đời lại u ám, đáng buồn. Người có thiện chí giúp đỡ nạn nhân lại bị nạn nhân từ chối quyết liệt. Người vợ bị chồng hành hạ, ngược đãi, thế nhưng vẫn cam chịu, quyết không bỏ chồng mà lại còn bênh vực. Người chồng vẫn có trách nhiệm với gia đình nhưng ngày nào cũng hành hạ vợ.

Đứa con dám đánh bố vì quá thương mẹ…

Nội dung trên có thể tóm tắt như sau:

Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh được trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp một cảnh biển sớm mai để bổ sung vào bộ ảnh lịch. Anh về lại vùng ven biển miền Trung, nơi trước đây đã từng tham gia chiến đấu chống Mĩ. Phùng gặp lại Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa giờ là chánh án tòa án huyện và được Đẩu tận tình giúp đỡ. May mắn thay, sau mấy buổi sáng kiên nhẫn “mai phục”, Phùng đã bắt gặp khoảnh khắc kì diệu của Cái Đẹp nghệ thuật: Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đất” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hưởng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trải tim như có gì bóp thắt vào.

Đoạn văn trên đẹp như một bài thơ. Nguyễn Minh Châu đã sử dụng ngôn ngữ rất tài tình để vẽ lên bức tranh cảnh biển buổi sáng mờ sương có đủ đường nét, ánh sáng, sắc màu và cả hình ảnh của con người. Trong màn sương sớm trắng như sữa, phớt chút ánh hồng ấm áp của ban mai, hình ảnh chiếc thuyền từ ngoài xa đang hướng mũi vào bờ đẹp như mơ. Trên mui thuyền, những dáng người ngồi im lặng đầy chất tạo hình. Cận cảnh là tấm lưới vó, viễn cảnh là chiếc thuyền thấp thoáng trong sương. Khung cảnh hài hòa đến độ toàn bích khiến trái tim người nghệ sĩ nhiếp ảnh như thắt lại vì cảm giác sung sướng và hạnh phúc. Đó chính là niềm hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận trước Cái Đẹp tuyệt diệu.

Mẫu số 2

Nguyễn Minh Châu là một trong những cây văn viết văn xuôi giàu chất thơ và dằm sâu chất triết lý. Trong đó, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác mang hơi hướng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu mà qua đó ông còn thể hiện được nhiều triết lý, ý nghĩa qua những hình ảnh nhỏ.

“Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm có tình huống truyện rất độc đáo. Nó được thể hiện qua những phát hiện chân thực của nhân vật Phùng. Tình huống truyện đầy bất ngờ và chứa nhiều câu chuyện mà qua đó tạo bước ngoặt trong nhận thức của nhân vật về nghệ thuật và cuộc sống.

Phát hiện đầu tiên dưới con mắt của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là một bức tranh thiên nhiên hoàn mĩ. Sau một tuần kiên nhẫn phục kích làm việc nhưng Phùng vẫn chưa chụp được một bức ảnh ưng ý thì trong một buổi sáng sương mù, lác đác mấy hạt mưa Phùng đã có dịp ghi lại những cảnh đẹp thiên nhiên chân thực. Đó là hình ảnh một chiếc thuyền lưới vó, đó là bầu sương mù trắng như sữa và có vài bóng người… Những hình ảnh hiện lên vô cùng đơn giản và bình dị. Dường như tác giả rất dụng công trong việc tỉ mỉ điều khiển đội quân ngôn ngữ của mình.

Qua đó thấy được sự tài hoa của ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong việc tả cảnh cùng với việc sử dụng nghệ thuật so sánh đầy tài ba, từ láy có giá trị gợi hình rất cao giúp nhà văn chạm khắc được một bức tranh bằng ngôn ngữ tuyệt mĩ, chân thực và sinh động. Dường như ngòi bút Nguyễn Minh Châu còn đang tranh tài với tạo hóa để rồi ngoại cảnh kia hóa thân trong những trang văn rất đẹp của Nguyễn Minh Châu. Đây cũng là niềm vui, sự hứng khởi của nhân vật Phùng sau những ngày ròng rã chưa tìm được những chi tiết đắt giá, bức ảnh mà mình ưng ý. Có lẽ vì thế mà khiến anh bấm máy liên tục để ghi lại khoảnh khắc hạnh phúc, đẹp rạng rỡ này của thiên nhiên.

Sau bức tranh thiên nhiên rạng rỡ ấy thì cũng là khi nhân vật Phùng tiếp tục phát hiện ra đằng sau nó là một bức tranh cuộc sống đầy nghịch lý. Lúc này, nhân vật Phùng đứng với cự ly gần hơn nên có thể nhìn rõ được hình ảnh người phụ nữ trạc ngoài 40 tuổi, cao lớn, thô kệch, mệt mỏi sau một đêm thức trắng. Còn người đàn ông kia với tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền, chân đi hình chữ bát… Một hình ảnh hiện lên không có tính thẩm mỹ với sự thật trần trụi của cuộc sống hiện tại. Với những hình ảnh này nó đối lập hoàn toàn ngược lại với bức tranh tuyệt bích mà trước đấy nhân vật Phùng đã phát hiện. Đoạn văn miêu tả hành động cục súc mà người đàn ông vừa đánh vừa nguyền rủa người đàn bà.

Trái lại, người đàn bà kia không có ý thức phản kháng mà cam chịu và không hề chống trả. Chưa dừng ở đó, tiếp tục hành động tát vào mặt những đứa trẻ. Đây đều là những hình ảnh xấu xí, phi nhân tính, phi đạo đức của cuộc sống và để lại nhiều ngỡ ngàng cho nhân vật Phùng. Anh không chỉ ngạc nhiên, giận dữ còn tỏ thái độ bất bình, ”vứt chiếc máy ảnh xuống đất định ngăn cản”… Nhưng chưa kịp thực hiện thì anh đã bị Phác lao tới ngăn cản. Qua đó, thấy được ở Phùng không chỉ là người nghệ sĩ yêu cái đẹp mà anh còn thể hiện là người dám lên án cái xấu, ngăn chặn cái xấu lại.

Cũng chính những phát hiện đắt giá của nhân vật Phùng qua bức tranh cuộc sống đầy nghịch lý ấy mà Nguyễn Minh Châu cũng thể hiện được thông điệp đó là: Đằng sau cái đẹp không phải bao giờ cũng là cái thiện, cái đạo đức mà có cả những xấu xa, bất công. Và để có những phát hiện đầy đủ nhất thì người nghệ sĩ phải khám phá về mọi mặt để hiểu và trân trọng những thứ chân thực ở cuộc sống.

Từ những phát hiện ấy mà Nguyễn Minh Châu còn hé mở và gieo vào lòng người đọc những nội dung mang tính triết lý hơn qua cảnh người đàn ông bạo hành những đứa trẻ nhỏ. Đó là một vấn đề rất đáng được quan tâm và là chi tiết đắt giá của toàn bài. Vấn đề bạo lực gia đình dường như vẫn còn nhen nhóm trong lòng tác giả. Thông qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu cũng thể hiện thông điệp của cuộc sống. Tác giả lên án thói vũ phu, tàn bạo của người đàn ông và ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, lên tiếng bảo vệ cuộc sống tương lai cho những đứa trẻ khi phải sống trong cảnh bạo lực.

Mẫu số 3

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiên phong trong thời kì đổi mới với nhiều truyện ngắn xuất sắc như Bến quê, Mảnh trăng cuối rừng, Chiếc thuyền ngoài xa, … Các tác phẩm của ông luôn chứa đựng những triết lý, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời. Và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa cũng là một trong những tác phẩm mang đậm phong cách tự sự – triết lý của ông.

Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 kể về một người nghệ sĩ nhiếp ảnh tên Phùng. Để hoàn thành nhiệm vụ chụp một bộ ảnh về cảnh biển, anh đã thực hiện chuyến đi thực tế ở một vùng biển – nơi từng là chiến trường cũ của mình để kiếm tìm một bức ảnh cho bộ lịch mới. Và tại đây, anh đã có được hai phát hiện to lớn, một là một bức ảnh “đắt giá trời cho” khiến anh phải say mê, ngây ngất vì đẹp, hai là phát hiện về một sự thật trần trụi ngay đằng sau vẻ đẹp hoàn mỹ anh vừa tìm ra.

Sau vài ngày “phục kích” mà vẫn chưa ưng ý, cuối cùng Phùng cũng “bắt gặp” một khung cảnh “trời cho”, đó là bức ảnh với những nét đẹp “đắt giá” nhất: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Khung cảnh ấy đẹp quá đỗi và với Phùng, đó là một “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” vừa đẹp đẽ vừa quý giá vô cùng. Vẻ đẹp của bức tranh “đơn giản và toàn bích”, một vẻ đẹp hoàn hảo, một khung cảnh diệu kì.

Phùng cho rằng “có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy”. Trước khung cảnh ấy, anh cảm thấy sự bồi hồi và có chút bối rối bởi cái đẹp kia toàn mỹ quá, huyền diệu quá, cái đẹp ấy dường như chỉ có trong những bức hoạ xa xưa, nó khiến Phùng cảm thấy “trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Và chính trong lúc ấy, Phùng cảm thấy dường như “chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”, và anh cho rằng phải chăng “cái đẹp chính là đạo đức”. Bởi cái đẹp không chỉ mang đến những rung động mà còn thanh lọc tâm hồn, mang đến “hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình”.

Phải nói rằng, Phùng là người nghệ sĩ có đam mê, trách nhiệm với nghề, bởi để có được bức ảnh ưng ý nhất, anh sẵn sàng “phục kích” hàng tuần trên biển, dù chụp được rất nhiều ảnh về cảnh biển nhưng anh đều không lòng mà tiếp tục tác nghiệp. Hơn thế, anh cũng rất nhạy cảm với cái đẹp để có thể phát hiện ra một bức tranh hoàn mỹ để mà thu lấy, mà cái đẹp ấy chỉ diễn ra trong tích tắc.

Thế nhưng, ít ai để ý rằng, nơi Phùng gác chiếc máy ảnh của mình để thu trọn cái cảnh đẹp kia chẳng phải là một nơi có thể bao quát toàn cảnh mà lại chỉ là bên một “bánh xích của chiếc xe tăng” – tàn tích của chiến tranh để lại. Có lẽ chính vì thế mà trong lần đầu tiên nhìn thấy cảnh đẹp ấy, Phùng mới chỉ có thể nhìn thấy vẻ ngoài của khung cảnh mà không phải là toàn bộ bức ảnh. Và những phát hiện phía sau bức ảnh “toàn bích” kia đã khiến anh phải hụt hẫng vô cùng. Đó là khi Phùng phải chứng kiến một cảnh đời vừa tàn nhẫn, vừa ngang trái và bi kịch, từ một trong những con thuyền bước ra một người đàn ông thô lỗ và một người đàn bà tội nghiệp. Lão đàn ông “hùng hổ, mặt đỏ gay”, rút chiếc thắt lưng “quật tới tấp vào lưng người đàn bà” lão vừa đánh nói những lời nguyền rủa độc ác “chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Và thật kì lạ làm sao, người đàn bà ấy chẳng chút phản kháng, cũng chẳng kêu một tiếng mà “cam chịu đầy nhẫn nhục” hứng chịu từng trận đòn roi.

Chứng kiến cảnh đó, Phùng “kinh ngạc đến mức” chỉ biết “đứng há mồm ra mà nhìn”. Bởi anh không thể hiểu được điều đang diễn ra trước mắt mình. Anh từng là người lính ở chiến trường khói lửa, những sự dã man, tàn bạo nhất cũng đã từng chứng kiến, thế nhưng cảnh tượng vô lí trước mặt vẫn khiến anh khó lòng mà chấp nhận. Càng kinh ngạc hơn khi hình ảnh của một đứa bé con lao vút qua người anh, “giằng lấy chiếc thắt lưng” và “ưỡn thẳng người vung chiếc khoá sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của người đàn ông. Đứa bé đó là Phác, đứa con trai của hai vợ chồng người đàn bà nọ. Và đáp lại hành động của thằng bé là hai cái tát “nảy lửa” từ người đàn ông khiến nó “ngã dúi xuống cát”. Khi ấy, người đàn bà hàng chài mới bật khóc, ôm lấy đứa con và rồi lại vội vã “đuổi theo lão đàn ông” và trở lại con thuyền.

Tất cả những sự việc diễn ra trước mắt khiến Phùng “ngơ ngác”, sự việc quái đản diễn ra bất ngờ khiến anh chẳng thể nào hiểu nổi. Chiếc thuyền vó đã biến mất “như trong câu chuyện cổ quái đản”, nhưng lại để lại trong Phùng nhiều điều băn khoăn, nhiều điều bối rối. Cái hình ảnh trần trụi mà anh vừa chứng kiến dường như đã thay đổi cảm quan bên trong con người anh. Anh phát hiện ra rằng: ranh giới giữa cái đẹp và cái xấu, cái hoàn mỹ đạo đức và dã man chỉ cách nhau một tấm màn mỏng. Một bức tranh tuyệt mỹ nhưng ẩn chứa trong nó là bao nhiêu cái dã man, tàn nhẫn và xấu xa vô cùng. Nó cũng là những điều mà nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm, ông cho rằng nghệ thuật tuy hướng về cái đẹp thế nhưng cũng phải gắn liền với hiện thực và không thể lừa đối. Không thể lấy cái đẹp mà che giấu đi những điều xấu xí, tàn ác bên trong được. Và người nghệ sĩ chân chính, phải là người có cái nhìn đa nhiệm, đa chiều, nhìn thấu cả cái đẹp bên ngoài và cả nội dung phía trong nữa.

Sau khi chứng kiến cảnh bạo lực gia đình dã man, vô lí, để giúp đỡ người đàn bà, Phùng đã ở lại bãi biển vài ngày để cùng Đẩu giúp người đàn bà thoát khỏi cuộc hôn nhân “địa ngục”. Thế nhưng người đàn bà ấy đến tòa án huyện bằng khuôn mặt “sợ sệt, lúng túng”, dù rằng đây là lần thứ hai bà ta đến đây để giải quyết công chuyện gia đình. Người đàn bà ấy “rón rén đến ngồi vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”.

Phải sống trong địa ngục trần gian với những trận đòn roi liên tục “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, thế nhưng chị ta lại cam chịu những tổn thương về cả thể xác và tinh thần chứ không chịu bỏ chồng, thậm chí chị ta còn quỳ lạy để cầu xin Đẩu và Phùng để không bắt mình bỏ chồng “Quý tòa bắt tội con cũng được , phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Trước thái độ cam chịu và hành động không sao hiểu nổi của người đàn bà, Phùng và Đẩu cảm thấy bất bình, khó hiểu thế nhưng lắng nghe câu chuyện của chị ta, hai người bỗng hiểu ra tất cả.

Khi kể về câu chuyện cuộc đời mình, người đàn bà ấy đổi cách xưng hô từ “con – quý tòa” sang “chị – các chú”. Chị ta chấp nhận sống cùng người chồng vũ phu, cam chịu những trận đòn roi vô lí bởi chị ta biết ơn và cũng hiểu được tâm tính của người chồng. Trước kia người đàn ông ấy cũng đã từng là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, ông ta cũng là người duy nhất chấp nhận cưu mang người phụ nữ xấu xí, lỡ thì là chị ta. Bởi vậy với người chồng bạo tàn hiện tại, người đàn bà không chỉ có sự thấu hiểu, tình nghĩa mà còn là sự biết ơn sâu sắc.

Những lời kể chân thật của người đàn bà đã khiến hai người đàn ông sững sờ. Họ chợt hiểu ra tấm lòng của một người phụ nữ, nó bao dung và đầy hy sinh đến nhường nào! Người đàn bà ấy thấu hiểu bản chất và sự thay đổi của người chồng, cũng chỉ vì khổ quá mà chị lại đẻ nhiều con nên người chồng mới trở nên cục cằn, bạo lực. Chị cũng hiểu về cuộc sống trên biển, một con thuyền lênh đênh trên biển không thể thiếu bàn tay chèo lái của người đàn ông, nhất là khi biển động, bão bùng. Và sự cam chịu của chị ta càng trở nên ý nghĩa hơn khi giúp cho những đứa con của mình có một gia đình hoàn chỉnh, có đủ bố mẹ.

Câu chuyện của người đàn bà giúp Phùng và Đẩu hiểu rõ rằng cái căn nguyên của bạo lực gia đình là cái nghèo, là cái đói. Phùng ngỡ ngàng nhận ra bản chất xù xì của hiện thực, đó có thể là những nghịch lí, những sự thật xấu xí vẫn tồn tại trong cuộc sống mà nếu chỉ nhìn bề ngoài, quan sát bằng đôi mắt hời hợt, khách quan thì không thể nhận ra. Hiện thực ấy cũng giúp Phùng chiêm nghiệm: nghệ thuật không thể chỉ có lãng mạn và thi vị hoá, nó đôi khi còn lại sự thật, là ngang trái.

Sau khi trở về toà soạn và bức ảnh kia được chọn thì trong lòng Phùng lại luôn canh cánh những điều mà ít ai có thể thấu hiểu. Bức ảnh ấy đã diễn tả một cảnh đẹp tinh khôi và trở thành bức ảnh nghệ thuật “được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Thế nhưng, chỉ riêng Phùng có thể nhìn thấy bước ra từ sâu bức tranh ấy bước ra “một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch”.Ở đây, Nguyễn Minh Châu đã cố ý lồng vào đó những hình ảnh mang tính biểu tượng. Một là “màu hồng hồng của ánh sương mai”, đó là biểu tượng cho cái đẹp, cái thơ mộng, cho vẻ đẹp toàn mỹ mà con người ta luôn tìm kiếm. Hai là hình ảnh người đàn bà vùng biển với dáng vẻ mệt mỏi, tiều tụy, đó là hiện thực, đó là cái nhìn có chiều sâu vào sự vật, hiện tượng, để thấy được những nội dung phía sâu bên trong cái đẹp và có đôi khi, cái chiều sâu ấy trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp bên ngoài.

Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm là nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực, không được tách rời với hiện thực và người nghệ sĩ phải là người có cái nhìn đa chiều để phát hiện ra bản chất bên trong về đẹp bề ngoài rực rỡ, hào nhoáng.